Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

MẤY LỜI XIN TRAO ĐỔI VỚI BÁC ĐÀO TIẾN THI: VỀ CHUYỆN KẺ THÙ CỦA HAI BÀ TRƯNG


 Tôi có được đọc bài Về bài Hai Bà Trưng trong sách Tiếng Việt 3 của bác Đào Tiến Thi, gửi đến bác Nguyễn Tường Thụy và độc giả. Vì tôi vừa là một độc giả của trang Nguyễn Tường Thụy Blog, lại vừa là tác giả của bài Sách Tiếng Việt 3: Kẻ thù của Hai Bà Trưng là kẻ thù nào? (Tâm Sự Y Giáo) nên tự thấy mình có “trách nhiệm giải trình” đôi điều với bác Thi, bác Thụy và bà con.
Trước hết tôi xin cảm ơn bác Đào Tiến Thi đã nhanh chóng có phản hồi, cung cấp cho mọi người biết được một số thông tin xung quanh cuốn Tiếng Việt 3. Điều này làm cho tôi cảm thấy thực sự quí mến và trân trọng bác Đào Tiến Thi.
Bên cạnh đó, với sự chân thành và thẳng thắn trên tinh thần cầu thị và xây dựng, tôi cũng xin được trao đổi vài điều với bác về bài phản hồi nói trên:
1) Bài Hai Bà Trưng trong sách Tiếng Việt 3  không đơn thuần chỉ là một bài tập đọc. Ngay trang sau của bài này còn có hai phần:
- Kể chuyện: Dựa vào bốn bức tranh tương ứng với bốn đoạn văn của bài, yêu cầu học sinh kể lại từng đoạn câu chuyện Hai Bà Trưng.
- Chính tả: Nghe – Viết: Hai Bà Trưng (từ Thành trì của giặc… cho đến hết)
Do đó qua bài này, các em học sinh đã được rèn luyện cả 4 kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết trong tiếng Việt, nhất là phần Kể chuyện. Trong phần này, các em phải chuyển hóa được các từ ngữ câu cú trong bài trở thành kiến thức lịch sử truyền thống riêng cho mình.
Như vậy, bài Hai Bà Trưng thực sự là một bài học có tính giáo dục truyền thống dựa trên một cốt truyện lịch sử, phù hợp với chủ điểm Bảo vệ Tổ Quóc. Hẳn nhiên, nó phải có đầy đủ các yếu tố của một bài học về truyền thống lịch sử của cha ông. Do vậy trong bài không thể thiếu được yếu tố “giặc Hán”, vì đây là đối tượng đánh đuổi của Hai Bà Trưng.
2) Vấn đề then chốt nhất làm cho “độc giả xôn xao” là trong bài Hai Bà Trưng, không có hai từ “giặc Hán”.
Tôi xin trích lại nguyên văn phần bác nói về điều này:
Khi đọc bài trên Nguyễn Tường Thụy blog, tôi đã liên hệ ngay với GS. Nguyễn Minh Thuyết để hỏi ai soạn bài này, để từ đó tìm lại bản gốc xem tác giả Văn Lang viết như thế nào. Việc tìm lại bản gốc đối với người làm khoa học luôn là cần thiết, tuy nhiên trong trường hợp này, theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, cũng không quan trọng. Bởi vì đối với lớp 3 phải rất hạn chế các thông tin không cần thiết. Vì nếu chỉ cần nói “giặc Hán” thì lại phải chú thích Hán là triều đại nào, điều đó rất trừu tượng với học sinh lớp 3”.
Thưa bác, cũng ngay trong 2 tuần đầu tiên của Học kỳ II, các cháu còn được học thêm về hai vị anh hùng đánh giặc Trung quốc nữa:
Trang 11, Nghe – Viết:
                                            Trần Bình Trọng
Năm 1285, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Trần Bình Trọng chỉ huy một cánh quân, không may sa vào tay giặc. Giặc dụ dỗ ông đầu hàng, hứa phong tước vương cho. Trần Bình Trọng khảng khái trả lời: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Giặc tức giận, giết ông. Khi ấy, ông mới 26 tuổi.
Trang 17:
                                        Lê Lai cứu chúa
Giặc Minh xâm chiếm nước ta. Chúng làm nhiều điều bạo ngược khiến lòng dân vô cùng căm giận. Bấy giờ ở Lam Sơn có ông Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa. Trong những năm đầu nghĩa quân còn yếu, thường bị giặc vây. Có lần giặc vây rất ngặt, quyết bắt bằng được chủ tướng Lê Lợi. Ông Lê Lai liền đóng giả làm Lê Lợi, đem một toán quân phá vòng vây. Giặc bắt được ông, nhờ vậy mà Lê Lợi và số quân còn lại được cứu thoát.
Trong khi đó, đoạn mở đầu của Hai Bà Trưng lại là:
Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ…
Cả hai đoạn nói về Trần Bình Trọng và Lê Lai đều nêu đích danh giặc Nguyên, giặc Minh ngay từ câu đầu tiên, nhưng không cần có ghi chú về giặc Nguyên, giặc Minh là ở triều đại nào.
Do đó nếu bài Hai Bà Trưng mở đầu bằng câu: “Thuở xưa, nước ta bị giặc Hán đô hộ” thì cũng là bình thường, chẳng có gì là “trừu tượng với học sinh lớp 3” cả.
Điều này cho thấy ý kiến  nói ở trên “Bởi vì đối với lớp 3 phải rất hạn chế các thông tin không cần thiết. Vì nếu chỉ cần nói “giặc Hán” thì lại phải chú thích Hán là triều đại nào, điều đó rất trừu tượng với học sinh lớp 3 là hoàn toàn không thuyết phục.
3) Tác giả bài văn là Văn Lang. Tìm hiểu qua nhiều bậc thức giả và nhiều nguồn tài liệu, tôi cũng không thể biết được Văn Lang là ai, và đã có những tác phẩm văn học nào. Có thể vì tôi dốt hoặc thiếu thông tin, nhưng cũng mạnh dạn nêu câu hỏi: Liệu rằng đây là một nhóm người hay chỉ là một người ? Nếu ‘ông’ Văn Lang là có thật thì ông có sẵn sàng lên tiếng? Bản gốc của ông có còn giữ được hay không? Tiếng nói của ông nếu có sẽ góp phần hé mở nhiều điều.
4) Bài Hai Bà Trưng đã tồn tại gần 10 năm mà không ai có ý kiến gì. Điều đó không có nghĩa là nó đã hoàn hảo rồi, không còn có điều gì phải bàn nữa. Ở Liên xô trước đây, lý thuyết dỏm về di truyền trong sinh học của Tromin Lysenko nhờ sức ép chính trị, đã lũng đoạn toàn bộ ngành sinh học của Liên xô trong thời gian 1930-1964, cuối cùng cũng phải dẹp bỏ đó thôi.
5) Điều cuối cùng tôi muốn nói rằng, trong câu chuyện này, bác Đào Tiến Thi đã làm hết phần việc của mình với tinh thần hết sức trách nhiệm, dù bác chỉ xuất hiện với vai trò khiêm tốn là Biên tập viên 2. Những nhân vật quan trọng hơn nhưng vẫn đang im lặng là nhóm tác giả, các hội đồng thẩm định, có thể còn có những hội đồng cao hơn nữa... Chính những nơi này mới là nơi quyết định nội dung cuốn sách.
Tôi hy vọng các nhân vật quan trọng này sẽ lên tiếng, thể hiện trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai, dẫu rằng điều này sẽ khó, thậm chí vô cùng khó khăn.
Chúc bác Nguyễn Tường Thụy và bác Đào Tiến Thi mạnh khỏe. Chúc bà con ta vui vẻ.
Tâm Sự Y Giáo
---------------------------
VỀ BÀI HAI BÀ TRƯNG TRONG SÁCH TIẾNG VIỆT 3
(Giãi bày cùng độc giả Nguyễn Tường Thụy Blog)
Đào Tiến Thi
Blog Nguyễn Tường Thụy vừa có bài Sách Tiếng Việt Lớp 3: Kẻ thù của Hai Bà Trưng là kẻ thù nào? khiến độc giả xôn xao. Vì tôi có liên quan đến cuốn sách nên xin có mấy điều nói cùng bác Thụy và độc giả.
Trước hết xin quý vị độc giả lưu ý: Đây là một bài tập đọc trong sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt. Hình thức của nó là một truyện kể, không phải bài lịch sử. Tác giả của bài văn này tên là Văn Lang (chắc là một nhà văn nào đó), chứ  không phải tác giả của SGK. Trong bài này, chúng ta quy ước gọi tác giả SGK là soạn giả, để phân biệt với tác giả của bài văn được chọn.
Nhóm soạn giả của cuốn SGK này gồm GS. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), một đại biểu Quốc hội sáng giá suốt hai nhiệm kỳ mà chúng ta ai cũng biết, cùng một số ông bà soạn giả khác: Lê Ngọc Điệp, Lê Thị Tuyết Mai, Bùi Minh Toán, Nguyễn Trí. Biên tập nội dung lần đầu (2004) gồm Nguyễn Thị Ngọc Bảo (biên tập 1) và tôi – Đào Tiến Thi (biên tập 2). Từ bấy đến nay, mỗi năm một lần tái bản, qua nhiều biên tập viên khác nhau.
Một bài văn nào đó được đưa vào SGK, phải đáp ứng rất nhiều tiêu chí: nội dung chính trị, tư tưởng, khoa học, văn hóa, văn phong (ngôn ngữ), sư phạm (phù hợp lứa tuổi), v.v.. Khi cần thiết, soạn giả cũng có thể sửa đôi chút về từ ngữ, diễn đạt, cắt những chỗ không cần thiết (trong một số trường hợp, cần xin phép tác giả, nếu tác giả còn sống).
Khi đọc bài trên Nguyễn Tường Thụy blog, tôi đã liên hệ ngay với GS. Nguyễn Minh Thuyết để hỏi ai soạn bài này, để từ đó tìm lại bản gốc xem tác giả Văn Lang viết như thế nào. Việc tìm lại bản gốc đối với người làm khoa học luôn là cần thiết, tuy nhiên trong trường hợp này, theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, cũng không quan trọng. Bởi vì đối với lớp 3 phải rất hạn chế các thông tin không cần thiết. Vì nếu chỉ cần nói “giặc Hán” thì lại phải chú thích Hán là triều đại nào, điều đó rất trừu tượng với học sinh lớp 3. Chỗ này, tôi có quan điểm hơi khác GS. Nguyễn Minh Thuyết một chút, sẽ nói ở phần sau. Tuy nhiên để như SGK hiện nay theo tôi tuy chưa rõ lắm nhưng cũng không có hại như một số người nghĩ. Với tên các nhân vật như Bà Trưng, Thi Sách, Tô Định, lên lớp 4, học lịch sử, học sinh sẽ rõ; còn trong khi học, nếu học sinh có hỏi, cô giáo cũng không khó trả lời. Ở đây theo tôi cũng không có chuyện tác giả Văn Lang hay các soạn giả SGK phải trốn nhắc đến giặc Hán (Trung Quốc). Vì ở thời điểm làm sách này (2003), quan hệ giữa ta và Trung Quốc không phải như bây giờ. Tất nhiên nhiều vấn đề đã có từ thời ấy nhưng những người như tác giả Văn Lang (có thể đã viết từ rất lâu trước đó), như GS. Nguyễn Minh Thuyết không thể biết. Chính tôi cũng chỉ từ giữa 2009 trở đi mới quan tâm đến quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, mới biết nhiều sự thực mà trước đó không hề biết. Độc giả có thể kiểm tra điều này khi thấy trong SGK Tiểu học còn có những bài chỉ đích danh các triều đại phong kiến Trung Quốc hoặc xâm lược, hoặc có  hành vi ngang ngược đã bị ta trừng trị như thế nào. Ví dụ, bài Trí dũng song toàn (Tiếng Việt 5 tập 2, trang 25) kể về Thám hoa Giang Văn Minh đã đứng giữa triều đình nhà Minh bác bỏ lệ cống “đầu vàng Liễu Thăng” và đối lại câu của vua Minh Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Đồng trụ đến giờ rêu vẫn xanh) bằng câu Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ).
Nói riêng về tôi, như trên kia đã nói, tôi là một trong hai người biên tập nội dung lần đầu. Sách in lần đầu vào đầu năm  2004, nhưng các khâu biên soạn, biên tập, thẩm định chủ yếu làm từ 2003, chưa kể, đã đưa vào dạy ở dạng thử nghiệm mấy năm trước. Tôi từ giáo viên chuyển về làm biên tập viên Nhà xuất bản Giáo dục 5-2003, khi sách này đã xong thẩm định vòng 1. Như nhiều người biết, biên tập viên (editer, xuất phát từ chữ editsửa chữa) là người giúp tác giả hoàn thiện bản thảo. Do mới vào nghề, tôi là biên tập 2 (hiểu như là biên tập phụ), đứng sau biên tập 1 (hiểu như biên tập chính), tuy nhiên, tôi “can thiệp” vào cuốn sách rất tích cực, sát cánh với GS. Nguyễn Minh Thuyết trong nhiều vấn đề. Chẳng hạn, sách Tiếng Việt 4 lúc còn thử nghiệm có chú thích “mật ong già hạn” hiểu là “mật ong để lâu”, tôi thấy không ổn, cho nên nhân lần về quê, tôi vào núi, hỏi những người nuôi ong sành sỏi để biết “mật ong già hạn” là thế nào. Hỏi được rồi, tôi sung sướng điện ngay cho GS. Nguyễn Minh Thuyết biết. Nói thế để độc giả hiểu rằng nếu tôi thấy “gợn” ở bài Hai Bà Trưng (không nói giặc nào) thì tôi đã đề nghị sửa ngay. Nhưng quả thực hồi đó tôi không thấy gì cả. Có thể do chuyên môn tôi còn non, nhưng có lẽ chủ yếu do vấn đề quan hệ  Việt – Trung không có gì ám ảnh như bây giờ. Và tôi nghĩ hầu hết mọi người đều như vậy. Cho nên bài Hai Bà Trưng đã tồn tại như thế trong SGK gần 10 năm nay mà chưa thấy ai thắc mắc gì. (Nên biết là mỗi năm chúng tôi nhận được khá nhiều góp ý từ thiên la địa võng người học, người dạy và bạn đọc). Nhưng với tình hình rất cảnh giác của một bộ phận “không nhỏ” nhân dân ta  trong vấn đề Trung Quốc, thì tôi thấy tác giả nào đó nêu vấn đề như trên là điều dễ hiểu.
Sự thực thì năm ngoái, khi tôi được mời viết cuốn Rèn kỹ năng cảm thụ văn học qua các bài tập đọc lớp 3 (là sách tham khảo giúp học sinh hiểu thêm, không phải SGK) và chính phần tôi viết có bài này, tôi cũng đã nhận thấy để văn bản như hiện giờ không ổn lắm. Tôi không có quyền sửa văn bản nhưng tôi đã cố gắng cho học sinh thấy đây là sự kiện chống giặc Hán. Tôi viết phần Ghi nhớ (đóng khung): “Dưới ách đô hộ của nhà Hán…”. Và ở phần Gợi ý cảm thụ, cũng có ngay câu đầu: “Những năm đầu công nguyên, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Dưới ách tham tàn của chúng…”. Tôi còn trích một đoạn trong Đại Nam quốc sử diễn ca để nhấn mạnh sự nghiệp oanh liệt của Hai Bà Trưng (xem ảnh chụp trang sách).
Cuối cùng tôi nghĩ rằng trong tình hình hiện nay, để chúng ta không bị hớ trong quan hệ với Trung Quốc, để chống lại tư tưởng đầu hàng khiếp nhược, việc nêu vấn đề như bài báo trên là cần thiết, đáng hoan nghênh. Tuy nhiên cũng cần bình tĩnh xem xét, chứ kết luận vội vàng rằng SGK “lươn lẹo né tránh” thì rất oan uổng và gây tổn thương không đáng có cho những người cùng một chiến hào chống xâm lược. (Theo Anh Ba Sàm)

2 nhận xét:

  1. Nếu ông Đào Tiến Thi có trót nghe chỉ đạo của trên mà đục bỏ cái từ "Đông Hán" trong từ "Giặc Đông Hán" trong sách giáo khoa lớp 3 thì cũng nhận đi cho tiến bộ. Nếu không người ta lại nghĩ bác làm cách mạng nửa vời đấy.

    Trả lờiXóa
  2. @ Bác Nặc danh 21:44,

    Cản ơn bác đã chia sẻ ý kiến. Tuy vậy theo tôi thì bác Đào Tiến Thi vô can trong chuyện này. Tôi nghĩ những lời giãi bày của bác Thi về phần công việc của mình là biên tập viên số 2 (phụ) cho cuốn sách, là có thật. Chịu trách nhiệm chính về nội dung là nhóm tác giả, hội đồng thẩm định, hội đồng XYZ... bác ạ. Kính.

    Trả lờiXóa