Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

LẠI THÊM LÝ LUẬN ĐỘC DƯỢC CỦA MỘT NHÀ NGHIÊN CỨU BÁN BIỂN ĐÔNG


Đọc xong bài phỏng vấn của TVN dành cho ông Việt Long, nhà nghiên cứu Biển Đông, tôi có cảm giác đắng chát vì nỗi thất vọng quá lớn đối với lý luận của một người được coi là có nhiều bài nghiên cứu về Biển Đông. Chắc rằng không mấy người dân Việt Nam được đọc những bài nghiên cứu của ông Việt Long này, nhưng qua mấy câu trả lời trên TVN, có thể nói rằng ông này cũng có kiểu “lý luận cực kỳ độc dược”. Nếu không cảnh giác, những liều thuốc cực độc trong những câu trả lời của ông Việt Long sẽ làm tư duy của không ít người bị “phơi nhiễm” và dễ dàng chấp nhận tâm lý nô bộc cho giặc bành trướng.
Thưa ông Việt Long,
Ngay từ đầu, cái tiêu đề bài báo đã là kỳ cục: “Chuẩn bị kỹ pháp lý để chắc thắng”. Xin hỏi ông Việt Long: thế nào là kỹ, kỹ đến bao giờ? Kỹ kiểu gì mà người dân hầu như không được biết thông tin về biển Đông, trừ mấy câu tua đi tua lại chẳng nói lên điều gì? Những việc phải cân nhắc để nói vào thời điểm thích hợp là những việc gì, mà nghe như đâu đây có mùi áo gấm đi đêm quá vậy hả ông Việt Long? Đã có ai “nói” với dân điều gì đâu, toàn là do dân tự tìm hiểu cả đấy. Nói thẳng với ông, ngụy biện bịp bợm vừa vừa thôi, coi thường độc giả và người dân Việt cũng vừa vừa thôi ông ạ.  
Cũng ngay từ câu hỏi đầu tiên: “Dường như thiếu một nhạc trưởng để phối hợp các nhánh nghiên cứu khác nhau sao cho hiệu quả nhất. Ông có đồng ý vậy không?” là đã thấy kiểu trả lời quanh co quái dị của ông rồi. Sao ông không trả lời thẳng vào câu hỏi, và cho biết luôn việc “thiếu nhạc trưởng” trong nghiên cứu Biển Đông là do ai? Cố ý hay là vô tình? Lòng vòng một hồi, ông chốt lại nhẹ bâng: Nói chung, cần phải tiếp tục củng cố chứng cứ pháp lý để có cơ sở thuyết phục du luận một cách chặt chẽ nhất, để không ai có thể đưa ra những ngờ vực, nghi ngại về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có vẻ như ông đã cố tình lờ đi sự thật lịch sử mà bất cứ người VN nào bình thường về trí tuệ đều biết rằng: ngày 19/1/1974 Trung Quốc đã đưa quân xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa (lúc ấy đang do Việt Nam Cộng Hòa quản lý) và ngày 14/3/1988, Trung Quốc lại tiếp tục đưa quân  xâm chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa thuộc CHXHCN Việt Nam? Để đến bây giờ ông lại lập luận rất củ chuối rằng phải tiếp tục củng cố chứng cứ pháp lý thì mới chứng minh được chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa? Mang danh “nhà nghiên cứu Biển Đông” như ông mà lại lập luận đại bịp như thế ư?
Ông lại tiếp tục lừa người đọc một cú nặng nữa khi tuyên bố: “Nhưng vấn đề này không chỉ đơn thuần là lịch sử mà còn là pháp lý và chính trị- ngoại giao xen kẽ nhau”. Ai cho phép ông thay mặt dân tộc Việt Nam để phán rằng chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa là vấn đề chính trị và vấn đề ngoại giao? Đây là vấn đề thuần túy lịch sử và pháp lý, vậy mà ông quàng thêm vào đó chính trị và ngoại giao, để rồi sau này nếu có cơ hội, ông muốn bán Hoàng Sa, Trường Sa khi nào thì bán , với giá bao nhiêu là tùy ông? Một luận điệu xảo quyệt và thâm hiểm đến thế là cùng, thưa ông !
Đến cái đoạn dưới đây thì tôi phải nói rằng: Lượng độc tố trong mớ lý luận của ông đã lên cao đến mức đáng ghê tởm. Ông bảo:
Ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, độc giả yêu chuộng những bài thể hiện tinh thần yêu nước mà ít chú ý đến chuyên môn luật biển. Tinh thần yêu nước rất cần khuyến khích, nhưng về mặt chuyên môn cũng cần cân nhắc nhiều… Không một con dân đất Việt nào lại cam tâm bán rẻ đất nước mình. Song phương thức đàm phán, đối phó, xử lý các tình huống như thế nào cho có lợi nhất thì không phải cái gì cũng đưa lên mặt báo. Tôi nghĩ, trong trường hợp này, chúng ta nên học hỏi cách ứng xử của Đài Loan với Trung Quốc. Họ không bao giờ công kích nhau cả, thậm chí còn hỗ trợ nhau vì lợi ích chung của dân tộc Trung Hoa”.
Xin nói với ông rằng:
- Ngày xưa, bao nhiêu thế hệ cha ông đã đánh đuổi giặc phương Bắc như thế nào, chắc ông đã rõ. Sức mạnh lớn nhất chính là tinh thần yêu nước kết hợp tinh thần đoàn kết toàn dân xung quanh người lãnh đạo kháng chiến chống ngoại xâm đã tạo nên những chiến thắng vô cùng vẻ vang mà cho đến tận hôm nay, chính quyền Bắc Kinh còn cảm thấy bẽ bàng. Với tham vọng ngông cuồng của Bắc Kinh hiện nay, cái gọi là chuyên môn của ông phỏng có ích gì mà cứ phải nhai đi nhai lại để lừa dân?
-  Ông là ai mà dám đoan chắc “Không một con dân Việt nào lại cam tâm bán rẻ đất nước mình”? Những Trần Ích Tắc, những Lê Chiêu Thống thời nào mà chẳng có, thậm chí thủ đoạn bán nước của chúng càng về sau càng tinh vi hơn nhiều. Trước sức ép của lòng dân, chính những kẻ đang lấp ló dã tâm bán nước mới thường chống chế bởi những câu dị hợm, sai cả về logic lẫn ý nghĩa như vậy.
Ông nói về phương thức đàm phán, đối phó, xử lý các tình huống thế nào có lợi nhất thì không phải cái gì cũng đòi hỏi đưa lên mặt báo. Chỉ có phương cách của bọn bán nước cầu vinh thì mới “bí mật” như ông nói thôi. Còn đã có lợi nhất cho dân cho nước thì khi dân được biết, dân càng thêm  phấn khởi và tin tưởng ở những người lãnh đạo. Luận điệu của ông đích thị là phụ họa cho bọn bán nước rồi!
Kinh tởm hơn nữa, ông khuyên dân ta nên học cách ứng xử của Đài Loan với Trung Quốc: “Họ không bao giờ công kích nhau cả, thậm chí còn hỗ trợ nhau vì lợi ích chung của dân tộc Trung Hoa”. Cho tôi hỏi ông là người dân tộc nào mà lại có lời khuyên quái đản như thê? Hà cớ gì ông đưa cái mồi nhử độc hại “vì lợi ích chung của dân tộc Trung Hoa” ra mời những người con của dân tộc Việt, một dân tộc oai hùng đã từng bị Trung Quốc đô hộ cả ngàn năm nhưng vẫn luôn luôn chiến thắng kẻ thù Trung Quốc?
Khỏi cần nói tới đoạn cuối của bài báo, có lẽ bấy nhiêu cũng đủ cho mọi người thấy cái kiểu lý luận vô cùng độc địa, độc hại của ông. Ông chủ thực sự của ông là ai vậy, ông Việt Long? Có lẽ từ nay, nên gọi ông là NHÀ NGHIÊN CỨU BÁN BIỂN ĐÔNG thì hơn, ông nhá !!

PHỤ LỤC: Bài Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974 đang trên VietnamNet ngày 22-2-2011 đã bị xóa mất. TSYG đăng lại bài này còn lưu trong bộ nhớ cach của Google trong phần Phụ lục:
    
Đây là bộ nhớ cache http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-02-22-su-that-ve-su-kien-hoang-sa-1974 của Google. Đây là ảnh chụp nhanh của các trang được hiển thị vào 15 Tháng Mười Một 2012 17:32:45 GMT. Trang hiện tại có thể đã thay đổi trong thời gian chờ đợi. Tìm hiểu thêm
Mẹo: Để tìm nhanh cụm từ tìm kiếm của bạn trên trang này, nhấn Ctrl+F hoặc 
-F (Mac) và sử dụng thanh tìm.

Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974

Tác giả: Trường Minh
Bài đã được xuất bản.: 23/02/2011 05:00 GMT+7
Cách đây hơn 3 thập kỷ, ngày 19/01/1974, quân đội Trung Quốc đã tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc này đang do chính quyền Sài Gòn quản lý.
Vậy mà, ngày 19/1/2011, mạng Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung Quốc (www.scio.gov.cn) đăng tin dưới dạng sự kiện về việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam với nội dung như sau: "Ngày 19/1/1974, quân và dân quần đảo Tây Sa của ta (Trung Quốc) tiến hành tự vệ phản kích nguỵ quân miền Nam Việt Nam - kẻ đã liên tục xâm phạm lãnh hải, không phận, cướp chiếm các đảo và gây thương vong cho ngư dân ta, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ".
Vậy sự thật của sự kiện Hoàng Sa tháng 1/1974 là gì? Là một cuộc đáp trả tự vệ của quân dân Trung Quốc như mạng thông tin trên tuyên bố, hay là một cuộc xâm lược một vùng đất có chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam?
Chủ quyền không thể chối cãi
Hơn ba thập kỷ qua, trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung có những bước thăng trầm, Việt Nam vẫn luôn khẳng định Hoàng Sa cùng với Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của mình. Bởi vì chủ quyền ấy đã được minh chứng bằng thời gian và lịch sử của nhiều thế kỷ những cư dân và Nhà nước Việt Nam đã quản lý và khai thác vùng lãnh thổ trên biển Đông này.
Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974
Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như với Trường Sa) được minh chứng không chỉ bằng những tài liệu do người nước ngoài ghi chép như sách Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán viết năm 1696, hay của nhiều tác giả Tây phương như Le Poivre(1749), J,Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)...; cũng như những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể liên quan đến hoạt động của các Đội Hoàng Sa xưa ở cửa biển Sa kỳ và đảo Lý Sơn (Cù lao Ré), mà còn được ghi lại trên nhiều thư tịch, trong đó có những văn bản mang tính chất Nhà nước của Việt Nam.

Cho đến nay chúng ta vẫn có bằng chứng đầy đủ về chủ quyền của nhà nước Đại Việt (gồm cả Đàng Ngoài của các chúa Trịnh và Đàng Trong của các chúa Nguyễn đều tôn phò nhà Lê) qua Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ (của Đỗ Bá Công soạn năm Chính Hoà thứ 7-1686) và sách Phủ Biên Tạp Lục của bác học Lê Quý Đôn (1776)...

Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng:

"Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm... Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn..." 
Bìa chủ quyền Hoàng Sa ở Việt Nam được dựng vào những năm 1930. Ảnh: chụp tại phòng lữu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng

Còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.

Với sách Phủ Biên Tạp Lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1776), Hoàng Sa còn được mô tả kỹ hơn. Năm 1775, Lê Quý Đôn được Chúa Trịnh cử vào vùng đất Phú Xuân lãnh chức Hiệp trấn để lo việc bình định hai trấn mới thu hồi được từ Chúa Nguyễn là Thuận Hoá và Quảng Nam. Sách dành nhiều trang để mô tả về các "Đội Hoàng Sa" và "Bắc Hải" của chúa Nguyễn tổ chức cho dân vùng Tư Chính, Quảng Ngãi tổ chức thường kỳ việc vượt biển đến Hoàng Sa để thu luợm các sản vật đem về đất liền. Những tư liệu thu thập tại địa phương xã An Vĩnh (Cù lao Ré) còn nói tới "Đội Quế hương" cũng là một hình thức tổ chức do dân lập xin phép nhà nước được ra khai thác ở Hoàng Sa.

Qua thời Nguyễn, kể từ đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện nước Việt Nam (dưới triều Gia Long) và Đại Nam (kể từ triều Minh Mạng) đã chấm dứt tình trạng cát cứ và phân tranh, thống nhất quốc gia thì việc quản lý lãnh thổ được ghi chép đầy đủ và lưu trữ tốt hơn. Tấm bản đồ được lập thời Minh Mạng Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ vẽ rất rõ cả một dải lãnh thổ gồm những đảo trên biển Đông được ghi chú là "Vạn lý Trường Sa" (tên gọi chung cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quan niệm đương thời).
Hai bộ sách địa lý quan trọng của triều Nguyễn là phần Dư Địa Chí trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833)đều đề cập tới Hoàng Sa trong phần viết về phủ Tư Nghĩa và đều chép lại những nội dung của các tài liệu trước, trong đó có hoạt động của các "Đội Hoàng Sa".

Bộ chính sử Đại Nam Thực Lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn liên tục cho đến thập kỷ đầu của thế kỷ XX đều nhiều lần ghi lại các sự kiện liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa như một bộ phận của lãnh thổ quốc gia. Ngay trong phần Tiền Biênchép về các tiên triều, bộ biên niên sử này cũng nêu lại những sự kiện từ thời các Chúa Nguyễn liên quan đến các quần đảo này.

Một thống kê cho thấy trên bộ sử này, trong phần chính biên ghi chép cho đến thời điểm in khắc đã có 11 đoạn viết về những sự kiện liên quan đến hai quần đảo này. Nội dung cụ thể như là việc nhà nước điều cho thuỷ quân và Đội Hoàng Sa ra đảo để "xem xét và đo đạc thuỷ trình" (quyển 50,52...đời Gia Long); cử người ra Hoàng Sa "dựng miếu, lập bia, trồng cây", "vẽ bản đồ về hình thế", "cắm bài gỗ dựng dấu mốc chủ quyền" (quyển số 104, 122, 154, 165 đời Minh Mạng).
Ngoài ra còn các bộ sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ(1851) cũng ghi rõ những công việc nhà nước Đại Nam đã thực thi trên lãnh thổ Hoàng Sa. Và đặc biệt quý giá là những châu bản của các vị vua triều Nguyễn (tức là có thủ bút của nhà vua) có liên quan đến Hoàng Sa. Giá trị của những văn bản gốc này là sự thể hiện quyền lực của người đứng đầu quốc gia đối với vùng lãnh thổ này. Ví như, phê vào phúc tấu của bộ Công ngày 12-2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua viết :"Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước (ta), rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ "Năm Bính Thân Minh Mạng thứ 17, họ tên cai đội thuỷ quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu"; hay các châu phê về việc thưởng phạt người có công tội khi thực thi trách nhiệm ở Hoàng Sa, đạc vẽ bản đồ v.v...
Mãi đến năm 1909, lần đầu tiên Trung Quốc mới đề cập đến chủ quyền của mình đối với khu vực lãnh thổ này. Điều đó cho thấy, trong suốt 3 thế kỷ trước đó (XVII-XIX), các tài liệu thư tịch của Nhà nước Việt Nam kế thừa nhau đã liên tục thể hiện chủ quyền lịch sử và thực tiễn quản lý‎ đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa.
Đến cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, Pháp với tư cách bảo hộ Việt Nam đã tiến hành quản lý Hoàng Sa - Trường Sa. Trong những lần tranh cãi giữa chính quyền bảo hộ Pháp và Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, Pháp đã 2 lần yêu cầu Trung Quốc đưa vấn đề ra toà án quốc tế giải quyết, nhưng Trung Quốc không đồng ý.
Chủ quyền của Việt Nam còn được các nước thừa nhận ở một Hội nghị quốc tế quan trọng. Tháng 9/1951, tại Hội nghị Sanfrancisco, với 46/51 phiếu, các nước đã bác bỏ đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Cũng tại Hội nghị này, đại diện chính quyền Việt Nam lúc đó đã tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không có nước nào phản đối.
Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính phủ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cũng đều thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Dưới đây là một vài bằng chứng:
Năm 1956, lực lượng hải quân của Chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước.
Năm 1956, Sở Hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân của Chính quyền Sài Gòn trên 4 đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng (Drumond).
Ngày 22-10-1956, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Ngày 13-7-1961, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang và đặt dưới quyền một phái viên hành chính.
Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây, v v...
Ngày 21-10-1969, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã Định Hải vào xã Hoà Long cũng thuộc quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam.
Tháng 7-1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển nông nghiệp và điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc quần đảo Trường Sa.
Tháng 8-1973, với sự hợp tác của Công ty Nhật Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và phát triển quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 6-9-1973, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, Quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Trận hải chiến sinh tử tháng 1/1974
Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều bảo vệ chủ quyền đó mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo.
Ngày 16-6-1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời cũng trong năm này, Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 22-2-1959, Chính quyền Sài Gòn bắt giữ trong một thời gian 82 "ngư dân" Trung Quốc đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng và Quang Hoa trong quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 20-4-1971, Chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 13-7-1971 Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày 10-7-1971.
Đỉnh điểm xung đột xảy ra vào tháng 1/1974, khi nhiều tàu chiến của quân đội Trung Quốc tiến hành đánh chiếm cụm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 11-1-1974 khi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của họ. Ngay sau tuyên bố nói trên, hải quân Trung Quốc đã mở màn chiến dịch xâm chiếm Hoàng Sa bằng cách tung nhiều chiến hạm và tàu đánh cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.
Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc
Ngày 16/1/1974, Chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo. Đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động vi phạm chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa của lực lượng vũ trang Trung Quốc nhưng với thái độ ôn hoà, kiềm chế.
Ngày 18/01/1974, Trung Quốc tăng viện thêm quân, chiến hạm tới quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 19/01/1974, Trung Quốc và Việt Nam Cộng hoà đã có trận hải chiến ở khu vực đảo Quang Hoà.
Ông Lữ Công Bảy, người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước trong vai trò là thượng sĩ giám lộ trên chiến hạm HQ-4 hồi tưởng lại: “Đúng 8g30, phía Trung Quốc nổ súng trước. Một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.
Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.
Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.
Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng” (Trích Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau: 30 phút và 35 năm - Nguồn: Tuổi Trẻ).
Trận hải chiến chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. 74 binh sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hi sinh.
Ngày 20/01/1974, Trung Quốc đã điều động thêm máy bay oanh tạc các đảo VNCH đóng giữ. Tính đến thượng tuần tháng 02/1974, Trung Quốc đã tạm chiếm quần đảo Hoàng SA và thiết lập căn cứ quân sự tại đây.
Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa. Ảnh tư liệu

Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.
Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa.
Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.
Hành động dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc đã vi phạm Điều 2 của Hiến chương LHQ. Trước các hành động đó, các nước như Liên Xô, Hà Lan, New Zealand, Indonesia..., các tổ chức quốc tế như Tổng Liên đoàn Lao động thế giới, các lực lượng thanh niên Italia, Hội đồng công dân Australia, Viện Nghiên cứu xã hội Australia, Ủy ban Đại học Australia bảo vệ Đông Dương,...đã lên tiếng phản đối hành động xâm lược lãnh thổ bằng vũ lực của Trung Quốc. Đồng thời, cũng trong năm 1974, HĐBA LHQ đã thông qua Nghị quyết 3314 định nghĩa về hành vi xâm lược bằng vũ lực.
Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa - Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.
Vậy đã rõ sự thật lịch sử về sự kiện Hoàng Sa 19/01/1974. Lịch sử vốn không thể che đậy, càng không thể tô vẽ hay xuyên tạc. Sử liệu còn đó, nhân chứng vẫn còn đó.
Trong khi lãnh đạo hai Đảng, hai nước luôn nhấn mạnh phương châm mười sáu chữ vàng và "bốn tốt" trong quan hệ Việt - Trung, những bài viết như trên đáng phải phê phán bởi nó sẽ làm vẩn đục tình hữu nghị, hợp tác mà lãnh đạo và nhân dân hai nước đang nỗ lực xây dựng.
* Xin bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu

5 nhận xét:

  1. Nghe lý luận của tên việt long và tên tvn nào đó(xin lổi đả không lịch sự) vì không đáng để gọi danh xưng là ông /tôi muốn cầm gậy nện cho tên chó dại nầy 1 trận /ngu sao ngu quá thể lại còn so sánh cách tàu đài loan ủng hộ tàu đại lục ra sao cho người Việt/dù nó là tàu Tưởng hay tàu mao chúng vẩn là tàu cùng 1 giòng máu cùng tổ tiên ,còn dân VN mình làm đách gì có họ hàng với bọn cướp nước mà ông kêu gọi bắt chướt cách giải quyết của đài loan để bán Hoang sa ,Trường sa cho chúng à /Ai đả mớm bài viết cho ông và đả nhận được bao nhiêu nhân dân tệ rồi/bọn bán nước nó mớm bài cho ông à /khi chúng thành lập cái gọi là tam sa cp VN phản đối dỉ nhiên là bằng mồm ,rồi tăng tốc xây dựng ,đưa du khách rồi làm hộ chiếu trong các vùng lưởi bò do chúng ăn cướp được CP ta lai phản đối ,dỉ nhiên củng lại bằng cái mỏm
    /phải chăng họ đưa bài cho ông để dọn đường cho chúng chuyển quyền chính chủ cho tàu khựa trong tương lai /tởm

    Trả lờiXóa
  2. Thang cha viet long dung la nghien cuu cach ban bien cua to quoc ta cho trung quoc me kiep no dung la thang khon nan

    Trả lờiXóa
  3. Cái bài phỏng vấn này tởm không thua gì của cha Lê Vĩnh Trương. Sao thời này nhiều TS, nhà nghiên cứu... tung ra rác rưởi thế không biết.
    À, bài viết "Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974" nó mới phục hồi lại hay sao ấy bác ạ, em vừa vào link đó thử thì thấy đủ cả bài.

    Trả lờiXóa
  4. Tức không chịu được lại phải nện thêm mấy câu ,ông nói cái cách Đài loan ủng hộ trung quốc ra sao ?ông hảy vểnh cái tai mà nghe Đài loan nó phản bác cái hộ chiếu đường lưởi bò hôm nay ra sao /made in Taiwan là freedom còn prc china là lủ ăn cướp biển hảy nhớ cho rỏ /tiến sỉ nầy chắc từ bổ túc văn hóa mà lên đây hay mua bằng củng chưa biết chừng
    Trăm năm bia đá thì mòm
    ngàn năm bia miệng vẩn còn trơ trơ
    tên ông va tvn đả được ghi vào danh sách tiếp theo của lê chiêu thống rồi đó

    Trả lờiXóa
  5. @ bác N K Ho : em vẫn gọi tên đúng như bác yêu cầu, còn bài Phụ lục là của VietnamNet bác a.

    Trả lờiXóa