TSYG: “Trong 30 năm qua,
những người cầm quyền Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân dân Việt Nam ”. Đó là lời
khẳng định đanh thép trong cuốn sách Sự
thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, một văn kiện quan
trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 4
tháng 10 năm 1979.
Đã nhận ra rằng bị Bắc Kinh phản
bội ba lần đau đớn với giá đắt đến vô cùng như thế, mà bây giờ vẫn phải cay đắng gọi bọn
họ là những người bạn 4 tốt, 16 chữ vàng! Lịch sử từ ngàn năm trước cho đến ngày hôm nay chỉ rõ rằng: tham vọng bành trướng, bá quyền đại Hán của giới cầm quyền Bắc Kinh ngày càng ngông cuồng, quyết liệt và nham hiểm. Sẽ không có gì lạ,
nếu còn bị Bắc Kinh phản bội dài dài. Bao giờ mới sáng mắt đây?
Nhằm:
- Nhớ về những sự kiện đau
thương của dân tộc trong quan hệ với Trung Quốc,
- Kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc
xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa 19/1/1974 , 35 năm ngày Trung Quốc phát động cuộc
chiến tranh xâm lược ở Biên giới phía Bắc Việt Nam 17/2/1979 và 35 năm chiến thắng Biên giới Tây Nam,
- Tưởng niệm và tri ân các Anh
hùng Liệt sĩ đã hy sinh tính mạng và tuổi thanh xuân của mình trong các cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược và tay sai của chúng,
TSYG xin đăng lại Phần V của cuốn sách quí này:
MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC
HÒA BÌNH VÀ
ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM
CHÂU Á
I
Việt Nam và Trung
Hoa là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước luôn luôn gắn bó, giúp
đỡ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích
cách mạng của nhân dân mỗi nước. Nhân dân Việt Nam đã ủng hộ nhân dân Trung Hoa về
chính trị và tinh thần, có lúc đã phối hợp chiến đấu cùng với nhân dân Trung
Hoa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân dân Trung Hoa, mặc dầu còn có
nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước Cọng hòa nhân dân Trung
Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến
chống bọn đế quốc xâm lược.
Nhân dân Việt Nam rất quý trọng và luôn luôn giữ gìn, vun đắp
cho mối tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Hoa đời đời
bền vững. Nhân dân Việt Nam
không hề xâm phạm độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của nhân dân Trung Hoa, không hề
can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Hoa. Đối với những vấn đề bất đồng về
quan điểm hoặc những hành động sai trái do những người lãnh đạo Trung Hoa gây
ra đối với Việt Nam , phía
Việt Nam
đã cố gắng và bền bỉ tìm cách giải quyết bằng con đường thảo luận nội bộ giữa
hai bên.
Mặc dầu những
người lãnh đạo Trung Hoa đang tâm phá hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân
dân hai nước, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn mà nhân
dân Trung Hoa đã dành cho nhân dân Việt Nam và rất mong muốn tình hữu nghị anh
em giữa nhân dân hai nước sớm được khôi phục. Trong các cuộc đàm phán để giải
quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nước, phía Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lòng mong muốn thiết
tha đó của nhân dân Việt Nam .
Lập trường trước sau như một của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sớm
khôi phục quan hệ bình thường giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên những nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mỗi nước và vì lợi ích của
hòa bình, ôn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới.
Tóm lại, trong 30 năm qua, những người cầm
quyền Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân dân Việt Nam :
1.
Tại Hội nghị Geneve năm 1954, họ đã bán rẻ
lợi ích dân tộc của nhân dân Việt Nam, không những để bảo đảm cho nước họ một
vành đai an ninh ở phía nam, mà còn chuẩn bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ
bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt
Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào
Trung Hoa.
2.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ thì họ bật đèn xanh
cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền
Nam Việt Nam. Khi Việt Nam
muốn ngồi vào thương lượng với Mỹ để phối hợp ba mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam đang trên đà đi tới thắng lợi
hoàn toàn thì họ bắt tay với chính quyền Nixon, dùng xương máu của nhân dân
Việt Nam để đưa nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa lên địa vị “siêu cường thứ ba”
và đổi chác lấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
3.
Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn
toàn miền Nam khỏi ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ và thống nhất nước
nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao để làm suy
yếu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam,
tiến đến dùng lực lượng quân sự của bè lũ tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry xâm lược
Việt Nam ở phía tây nam và lực lượng quân sự của Trung Hoa trực tiếp xâm lược
Việt Nam ở phía bắc, giết hại nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ
sở kinh tế, văn hóa của Việt Nam ở các vùng có chiến sự.
Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc
ác, bẩn thỉu hơn lần trước!
Đối với nhân dân
Lào và nhân dân Campuchia, những người cầm quyền Trung Hoa cũng đã phản bội độc
ác và bẩn thỉu. Họ đã hy sinh lợi ích dân tộc của nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia tại Hội nghị Geneve năm 1954, Trong thời kỳ sau Geneve, họ ngăn cản
nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình,
trung lập. Khi nhân dân Campuchia hoàn toàn giải phóng đất nước ngày 17 tháng 4
năm 1975, họ đã dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry để thực hiện chính sách
diệt chủng, biến nước Campuchia thày một nước chư hầu kiểu mới, một căn cứ quân
sự để từ đó tiến công nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở phía tây nam.
Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, họ phá hoại công cuộc xây dựng hòa
bình của nhân dân Lào, trang bị và giúp đỡ các lực lượng phản động ở Lào gây
rối loạn, đưa nhiều sư đoàn áp sát biên giới Lào – Trung, hòng ép nhân dân Lào
đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Họ chia rẽ ba nước Việt Nam , Lào, Campuchia, hòng làm suy
yếu và thôn tính từng nước.
Để che giấu bộ mặt
phản bội của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung
Hoa viện trợ cho nước Việt Nam ,
thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở Điện Biên Phủ”, v.v..
Nhân dân Trung Hoa đã dành một phần thành quả lao động của mình để giúp đỡ nhân
dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước, đó là điều mà
nhân dân Việt Nam, trong bất cứ tình huống nào, mãi mãi không bao giờ quên. Đối
với nhân dân Việt Nam, đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu
của những người cùng chung cảnh ngộ, nhưng đối với tập đoàn phản động trong
giới cầm quyền Bắc Kinh đó là một công cụ chính trị để thực hiện chính sách
bành trướng của họ ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương. Thực tế đã
chỉ rõ họ đã xử dụng viện trợ đó khi thì như “một củ cà rốt”, khi thì như “một
cái gậy”, tùy theo yêu cầu chính trị từng lúc của họ.
Vả lại, không chỉ
có vấn đề Trung Hoa giúp đỡ Việt Nam .
Những người lãnh
đạo Trung Hoa đã nhiều lần nói rằng nói đến cám ơn thì nhân dân Trung Hoa phải
cám ơn nhân dân Việt Nam .
Nhân dân Việt Nam
đã hi sinh nhiều, cống hiến nhiều đối với nhân dân Trung Hoa. Nhân dân Trung
Hoa phải cám ơn và có nghĩa vụ giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam . Nhân dân
hai nước giúp đỡ lẫn nhau.
Về việc Tổng thống
Nixon đi thăm Trung Hoa năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói với những
người lãnh đạo Việt Nam tháng 6 năm 1973 như sau:
“Thành thực mà nói,
nhân dân Trung Hoa, Đảng cộng sản Trung Hoa và nhân dân thế giới phải cám ơn
nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon
phải đi Bắc Kinh”.
Về việc nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa vào Liên Hợp Quốc năm 1971, Thủ tướng Chu Ân Lai đã nói
trong cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1971:
“Cống hiến của
Việt Nam
rất lớn. Chúng ta gắn bó với nhau”.
Lịch sử - và trước
hết là quân đội viễn chinh Pháp – đã trả lời rõ ràng câu hỏi: ai đã chiến đấu
và chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954? Điều cần nói thêm là trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chính phủ Trung Quốc có phái một số
cố vấn sang Việt nam, và trong những năm 1960 Bắc kinh có đưa sang Việt Nam một
lực lượng gọi là “bộ đội hậu cần” để giúp Việt Nam sửa những đoạn đường sắt và
đường bộ giáp Trung Quốc bị bom Mỹ phá hỏng và làm một số đường mới ở vùng biên
giới hai nước . Nhưng mặt chủ yếu họ làm
là điều tra tình hình các mặt, thâm nhập những vùng có các dân tộc thiểu số và
tuyên truyền “cách mạng văn hóa”. Phần lớn những gián điệp và “bộ đội sơn cước”
mà phía Việt Nam đã bắt được trong tháng 2, tháng 3 vừa qua chính là những tên
“bộ đội làm đường” Trung Quốc trước đây.
Từ sự phản bội ở
Hội nghị Giơ ne vơ năm 1954, việc lợi dụng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cưu nước
của nhân dân Việt Nam đến việc dựng lên chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Lêng xa ry,
vũ trang xâm lược Việt Nam
và uy hiếp xâm lược Lào, tất cả đều do:
- một tư tưởng chỉ đạo:
|
chủ nghĩa đại dân tộc
|
- một chính sách:
|
ích kỷ dân tộc
|
- một mục tiêu chiến lược:
|
chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ
nghĩa bá quyền nước lớn
|
Cụ thể là họ mưu
toan thôn tính Việt Nam và
toàn bộ Đông Dương, lấy đó làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam châu Á và từng bước triển khai
chiến lược toàn cầu của họ.
Để đạt mục tiêu và
bành trướng bá quyền của họ-những người cầm quyền Bắc Kinh đã nâng lừa dối và bịp bợm thành một
quốc sách, một thủ đoạn chiến lược.Về phương diện này, từ chỗ là những
người học trò của Gơ ben 1,
họ đã trở thành người thầy của Gơ ben. Họ gán cho người khác những điều mà họ
muốn làm. Họ đổ vấy cho người khác những điều mà chính họ làm. Họ dựng đứng sự
việc, xuyên tạc tài liệu, bóp méo lịch sử. Họ đổi trắng thay đen, đảo ngược
phải trái và cứ thế mà tuyên truyền bằng bộ máy thông tin khổng lồ và mọi
phương tiện khác. Họ giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội nhưng lại chống
chủ nghĩa xã hội. Họ hò hét chống chủ nghĩa đế quốc nhưng chính họ bắt tay với
đế quốc Mỹ. Họ kêu la phải chống hai siêu cường nhưng lại cấu kết với đế quốc
Mỹ để chống Liên Xô. Họ nói chống chủ nghĩa bá quyền, nhưng chính họ mưu toan
thực hiện chủ nghĩa bá quyền ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ đưa quân xâm
lược nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng lại vu cáo Việt Nam “xâm
lược” Trung Quốc. Họ tỏ vẻ “bảo vệ nhân quyền”, quan tâm đến “những người Đông
Dương di tản”, nhưng chính họ đã giết hại hàng triệu người Trung Quốc trong
cuộc “đại cách mạng văn hóa”, đã xúi dục hơn 20 vạn người Hoa bỏ Việt Nam đi
Trung Quốc. Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, luận điệu của họ là chân
lý, lợi ích của họ là đạo lý.”Quan châu được đốt đèn, dân đen không được nổi
lửa”, câu nói đó của những người nông dân Trung Quốc dùng trước đây để chỉ
trích sự áp bức của bọn bạo chúa phong kiến đã trở thành phương châm của những
người cầm quyền Bắc Kinh hiện nay nhằm thực hiện tham vọng bành trướng và bá
quyền của họ.
1. Gơ-ben là Bộ trưởng tuyên truyền của Hit
le. (BT)
Hiện nay những
người lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức nêu cao ngọn cờ đại dân tộc để tập hợp
các phe phái, thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ ra sức
thực hiện chính sách bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á, cấu kết với
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, trước hết là với Mỹ, chống
Liên Xô và cách mạng thế giới, với hy vọng tranh thủ được nhiều vốn và kỹ thuật
hiện đại của phương tây, phục vụ cho “bốn hiện đại hóa”. Và mưu đồ bành trướng
và bá quyền của họ.
Một Trung Quốc bị
đầu độc bởi tư tưởng đại dân tộc, chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của những
người cầm quyền, bất kể phát triển theo con đường nào, không phải chỉ đe dọa
độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, Đông
nam châu Á và Nam Á, đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực này, mà còn đe dọa lợi
ích nhiều mặt của các nước khác, kể cả các nước, vì lợi ích trước mắt, đang phụ
họa với người cầm quyền Trung Quốc chống Việt Nam, Lào và Cam pu chia. Một số
người thức thời trong các nhà chính trị và kinh doanh phương tây mới cảnh cáo
chính phủ họ về hậu quả nặng nề có thể xảy ra khi đất nước Trung Quốc lại lâm
vào một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ mới, nhưng họ chưa nói tới những hậu
quả còn nặng nề gấp bội đối với lợi ích của các nước trên thế giới, do chính
sách bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc gây ra.
Trong hàng nghìn
năm qua, nước Việt Nam đã bị các hoàng đế Trung Quốc xâm lược hàng chục lần,
nhân dân Việt Nam hiểu rõ những ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Trung
Quốc, cho nên không một phút nào là không cảnh giác đối với họ. Thậm chí trong
lúc đế quốc Mỹ đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên đến đỉnh cao nhất , nhân dân
Việt Nam đứng trước những khó khăn chồng chất, nhưng đã thẳng thắn khước từ
những đề nghị của những người lãnh đạo Trung Quốc đưa sang Việt Nam 20 vạn quân
và số ô-tô cần thiết để đảm nhiệm việc vận chuyển quân sự từ miền Bắc vào miền
Nam Việt Nam . Nhân dân Việt Nam luôn luôn giữ vững đường lới độc lập, tự chủ
của mình không gì lay chuyển được, bất chấp sức ép dù là che giấu hay công
khai, gián tiếp hay là trực tiếp, của những người cầm quyền Trung Quốc.
III
Mặc
dầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 đã thất bại thảm hại cả
về quân sự và chính trị, những người lãnh đạo Trung Quốc vẫn theo đuổi chính
sách điên cuồng chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Phía Trung Quốc vẫn giữ thái
độ nước lớn trong cuộc đàm phán về những vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước,
vẫn ngang ngược đe dọa “cho Việt Nam một bài học nữa”. Đồng thời họ
tìm cách khôi phục chế độ diệt chủng Pôn-Pốt – Lêng Xa ry đã bị nhân dân Cam pu
chia lật đổ hoàn toàn, đe dọa xâm lược nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, nhằm
duy trì sự uy hiếp từ mọi phía đối với Việt Nam.
“Không có gì
quí hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc
tế đúng đắn của mình, quyết đập tan mọi hành động xâm lược của bất kỳ thế lực
phản động nào, quyết làm thất bại mọi mưu đồ bành trướng nhằm khuất phục nhân
dân Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam
có chính nghĩa, lại có sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân, kết hợp với
sức mạnh của ba dòng thác cách mạng vĩ đại đã và đang đẩy lùi từng bước các âm
mưu can thiệp, nô dịch và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dấn cũ
và mới, chủ nghĩa bành trướng, và chủ nghĩa bá quyền, ngày càng làm thay đổi
bản đồ châu Á, châu Phi, và châu Mỹ La tinh. Bọn bành trướng Bắc Kinh, nếu
không sớm rút ra những kết luận cần thiết từ sự thất bại từ chính sách chống
Việt Nam vừa qua, thì nhất định sẽ chuốt lấy những thất bại mới nặng nề hơn.
Trong thời đại ngày nay, các nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng thể duy
nhất của xã hội loài người. Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến Việt
Nam mà không khiêu khích cả loài người , không thách thức cả hệ thống xã hội
chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và mặt trận nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình và chính nghĩa
trên thế giới đã và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam .
Bằng chính sách
bịp bợm “thân xa đánh gần” của các hoàng đế Trung Quốc và nhiều thủ đoạn
xảo quyệt khác, những người cầm quyền Trung Quốc có thể còn che giấu được bộ
mặt bành trướng của họ trong một thời gian. Nhưng sớm muộn nhân dân các nước ở
Đông nam châu Á sẽ hiểu rằng chính sách thù địch của Bắc Kinh chống Việt Nam đe
dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không phải chỉ của riêng Việt Nam,
mà của cả các nước trong khu vực. Mọi người chắc chưa quên rằng Bắc Kinh đã
dùng “đạo quân thứ năm” người Hoa để gây rối loạn về chính trị, kinh tế
ở nhiều nước thuộc Đông nam châu Á trước khi áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong
lúc họ tập trung cố gắng để chống Việt Nam , họ chẳng đang can thiệp một
cách thô bạo vào công việc nội bộ của nhiều nước khác ở châu Á đó sao ?
Những người cộng
sản chân chính ở Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc trong ba mươi năm tồn tại của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã luôn luôn bị các tập đoàn thống trị lừa dối, sớm muộn sẽ nhận ra chân lý và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam, sẽ ủng hộ
cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá
quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh để bảo vệ
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình, góp phần bảo vệ hòa bình và ổn
định ở Đông nam châu Á và trên thế giới tuy lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định
sẽ thắng lợi vẻ vang.
Nước Việt Nam ngày
nay sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển trước mọi mưu ma chước quỷ của những
người cầm quyền Bắc Kinh, và cũng như nước Việt Nam bốn nghìn năm qua đã đứng
vững và phát triển trước những cuộc xâm lược liên tiếp của các hoàng đế Trung
Quốc.
Nhân dân Việt Nam
và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ sống trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác,
hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và hợp với lợi ích của hòa bình ở
Đông nam châu Á và trên thế giới.
Tháng 10 năm 1979
Nhân dân VN anh hùng nhưng hiền hòa ,NHƯNG KHÔNG PHẢI KẺ THÙ NÀO CỦNG HIỂU ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ ,chính vì vậy người bạn 4 tốt và 16 chử của mấy đời TBT từ ông răng trắng cho đến ông định hướng dùng chính sách kinh tế ép dần đưa VN vào quỷ đạo kinh tế ,gần như lệ thuộc nguyên liệu xuất khẩu đến 60 % .ngày nào nhà nước DÁM LÀM NHƯ Ngô tổng thống cấm dân hoa kiều kinh doanh 18 nghàng nghề ,chỉ cho kinh doanh món hàng duy nhất là ve chai ,phế liệu thì đất nước nầy mới sánh vai cùng asian và thế giới .
Trả lờiXóaVậy mà bây giờ lãnh đạo đảng CSVN lại coi chúng là anh em cùng ý thức hệ, buông lỏng cảnh giác để cho chúng thao túng nhiều lĩnh vực quan trọng với thái độ vô cùng mất dạy.
Trả lờiXóa